du hoc nhat ban

du học nhật bản giá rẻ

Giáo dục Nhật Bản

Chế Độ Giáo Dục Nhật Bản

giáo dục nhật bản, giao duc cua nhat banNăm 1994 Nhật Bản cũng đã phê chuẩn “Điều ước về quyền lợi của trẻ em” được đưa ra tại Liên hiệp quốc năm 1989.
Trong điều ước này, việc bảo vệ quyền lợi được học của trẻ em qui định. Ở Nhật phụ huynh của trẻ em người nước ngoài không phải có nghĩa vụ cho con em được tiếp nhận giáo dục phổ thông, nhưng trẻ em thì có quyền được đi học.

Chế độ giáo dục Nhật Bản:
giáo dục nhật bản, giáo dục tại nhật bản
1/  Chế độ:
Chế độ giáo dục của Nhật cơ bản là trường tiểu học (cấp 1) 6 năm, phổ thông cơ sở (cấp 2) 3 năm, phổ thông trung học (cấp 3) 3 năm, đại học 4 năm (đại học ngắn hạn 2 năm).

2/  Giáo dục nghĩa vụ:
Trong các trường này, trường tiểu học và phổ thông cơ sở là giáo dục nghĩa vụ, toàn bộ trẻ em quốc tịch Nhật Bản bắt buộc phải nhập học và tốt nghiệp. Giáo dục là nghĩa vụ đối với công dân Nhật, nhưng trẻ em có quốc tịch nước ngoài từ 6 tuổi đến 15 tuổi đang sống ở Nhật thì nếu muốn, bất kể quốc tịch nào đi chăng nữa cũng có thể vào học các trường tiểu học và phổ thông cơ sở của địa phương với cùng một chi phí như trẻ em ở Nhật. Quý vị phụ huynh nên suy nghĩ đến tương lai của con em mà tiến hành việc nhập học và vào học một cách tích cực.

3/  Nguyên tắc:
Đa số các trẻ em của Nhật sau khi tốt nghiệp phổ thông cơ sở thì học tiếp lên phổ thông trung học và Đại học. Phổ thông trung học và Đại học thì trên nguyên tắc, người muốn học sẽ thi tuyển và vào học.
Ngoài ra, còn có trường mẫu giáo cho trẻ em trước khi vào học Tiểu học. Thêm nữa, có các trường chuyên tu và tổng hợp dạy kỹ thuật và kiến thức cần thiết để đi làm dành cho đối tượng chủ yếu là người đã tốt nghiệp phổ thông cơ sở và phổ thông trung học.




Hệ thống giáo dục Nhật Bản

Giáo dục Nhật bản được phân chia rõ theo từng cấp bậc học và độ tuổi như sau:
giáo dục nhật bản, chế độ giáo dục tại nhật bản
Tại Nhật Bản, đối với trẻ em đủ tuổi đi học thì các cơ quan nhà nước chủ động liên hệ thông báo đến từng gia đình sẽ tiến hành làm thủ tục, như khám sức khỏe, cung cấp sách vở,….chuẩn bị vào nhập học.
Tổng quát
Đối với mỗi học sinh Nhật Bản là 6 năm học tiểu học, 3 năm học Trung học cơ sở và 3 năm học Phổ thông trung học.
• Ở Nhật Bản vào ngày 1 tháng 4 hàng năm là ngày nhập học bậc tiểu học khi các bé mẫu giáo tròn 6 tuổi.
• Một năm học ở Nhật Bản bắt đầu từ tháng 4 và kết thúc vào tháng 3 năm sau.
• Đối với 1 bộ phận khối tiểu học, trung học cơ sở và phổ thông trung học của trường Quốc lập sẵn sàng cho thể chế nhận người nước ngoài hay các học sinh du học về nước thì hãy liên lạc cho Ủy ban nhân dân ở địa phương đó khi cần thiết.
• Sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học, tuỳ thuộc vào nguyện vọng mà các em học tiếp lên Đại học, Cao đẳng hay là đi làm.
• Ngoài các trường: Tiểu học, Trung học cơ sở, Phổ thông trung học, Trung học chuyên nghiệp, Cao đẳng, Đại học, Cao học quốc lập thì cũng có cả khối các trường do tỉnh lập, dân lập.
• Nếu khuyết tật hay vì sức khoẻ hạn chế mà không thể theo học các trường thông thường thì các trường học dạy nghề theo kiểu vừa học vừa làm cũng có.

Bậc Tiểu học và Trung học cở sở:
giáo dục nhật bản, điều kiện giáo dục nhật bản

Bậc Tiểu học và Trung học là giáo dục bắt buộc nên những gia đình có con em mang quốc tịch Nhật bản, đủ tuổi đi học sẽ nhận được thông báo từ cơ quan nhà nước quản lý trên địa bàn sinh sống và tiến hành các thủ tục như khám sức khỏe…v.v. để chuẩn bị cho việc nhập học. Tuy nhiên đối với người nước ngoài do không phải là giáo dục bắt buộc nên hình thức thông báo nhập học cũng không giống với người Nhât. Nhưng nếu muốn theo học các trường quốc lập thì cần phải có đơn xin nhập học. Đơn xin nhập học sau khi nộp sẽ được thông báo lại sớm trước khi nhập học và đối tượng xin học phải tiến hành các thủ tục đăng kí như là giấy chứng nhận đăng kí của người nước ngoài (của con em mình), giấy thông báo nhập học và mang đến trụ sở hành chính của thành phố, quận, huyện sở tại. Với trường hợp nhập học tại trường do tỉnh lập thì không mất học phí nhưng phải mất tiền ăn. Hầu hết khi học trong các trường Tiểu học và Trung học cơ sở Quốc lập thì có thể học Đại học mà không cần thi tuyển đầu vào. Trường hợp công dân trên 16 tuổi chưa có quốc tịch Nhật Bản hoặc người lao động học bổ túc trung học vào buổi tối cũng có thể học đại học. Đối với những người không thể tốt nghiệp Tiểu học hay Trung học ở nước mình cũng có thể học Đại học. Hoàn toàn không cần lo lắng về học phí hay trình độ học vấn.

Bậc THPT, Cao đẳng, Đại học:
giáo dục nhật bản, điều kiện giáo dục của Nhật

Sau khi tốt nghiệp THCS bạn có thể học tiếp lên PTTH (Cấp 3) hay trường trung học chuyên nghiệp (trường nghề). Tuy nhiên vì không phải là giáo dục bắt buộc nên nếu muốn học tiếp lên thì phải đăng kí dự tuyển. Trường PTTH học trong 3 năm (đối với hình thức học bán thời gian hay học từ xa phải mất trên 3 năm).

Dưới đây là một vài hình thức học.
• Phổ thông trung học
• Trung học dạy các kĩ năng chuyên môn để đi làm trong các môi trường đặc biệt như trường Trung học Nông nghiêp, Trung học công nghiệp, Trung học thương mại.
• Trường Trung học chuyên nghiệp (trường trung cấp dạy nghề). Chương trình học này gọi là Trung học chuyên nghiệp kéo dài 5 năm, học chuyên sâu hơn về chuyên môn. Một số ngành học thuộc lĩnh vực chuyên môn như là công nghiệp, điện từ, hàng hải. Tuy nhiên ở Tokyo không có chuyên ngành điện từ. Học viên sau khi tốt nghiệp thì có thể đi làm và tiếp tục học là liên thông lên Đại học.
• Trường trung học bán thời gian và trung học từ xa. Trong trường hợp nhưng người đang đi làm muốn học trung học vào giờ nghỉ trưa có thể tham gia học trung học bán thời gian hay buổi tối có thể tham gia học từ xa tại nhà. Do có thể lựa chọn thời gian học cho phù hợp nên những người không đăng kí học hoặc đang học giữa chừng cũng có thể tiếp tục học bình thường.
• Sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học thì vẫn có tư cách dự thi Cao đẳng hay Đại học.
• Dù không tốt nghiệp Phổ thông trung học nếu tham dự thi kỳ thi xác nhận trình độ Phổ thông trung học thì cũng có thể đủ tư cách dự thi Cao đẳng hoặc Đại học.
• Trường Cao đẳng học trong 2 đến 3 năm còn Đại học là học 4 đến 6 năm. Sau khi tốt nghiệp trường Trung cấp nghề thì có thể học liên thông lên Đại học trong 3 năm.
• Ngoài ra, sau khi tốt nghiệp Đại học cũng có thể học lên Cao học nếu muốn học nâng cao về chuyên môn. Thời gian học Cao học là 2 năm (Trình độ Thạc sĩ).

Độ tuổi đi học tại Nhật Bản:
giáo dục nhật bản, điều kiện giáo dục của Nhật Bản
So sánh giáo dục giữa Việt Nam và Nhật Bản:
điều kiện giáo dục của nhật bản 



Thời kỳ phát triển Cao đẳng và Đại học tại Nhật Bản"

Những thời kỳ phát triển hệ thống giáo dục Đại học của Nhật Bản cũng có thể cung cấp cho chúng ta một vài bài học và kinh nghiệm đáng tham khảo. Đáng tham khảo bởi vì Nhật cũng xuất phát từ một nước nông nghiệp, và cũng trải qua thời gian chiến tranh khốc liệt.


Thời kỳ - Tây phương hóa:
Từ thời Minh Trị Thiên Hoàng năm 1868. Trong thời gian này, Nhật cảm thấy bị đe dọa bởi các thế lực quân sự và kỹ nghệ của thế giới phương Tây, nhưng họ thấy đó là một cơ hội để tái cấu trúc hệ thống chính trị, xã hội và kinh tế, chuẩn bị cho sự nghiệp kỹ nghệ hóa đất nước. Minh Trị nhận thức rằng Nhật cần phải nắm lấy và làm chủ những “know-how” của phương Tây.


Năm 1877, Đại học Tokyo được thành lập (trước đây trường này chỉ là một trường cao đẳng dạy ngoại ngữ và y học cổ truyền). Đại học Tokyo lúc đó có 4 khoa: Luật khoa, Khoa học, Văn khoa và Y khoa. Trong giai này, phần lớn giáo sư là người ngoại quốc. Trong số 36 giáo sư, có đến 23 người là giáo sư từ Anh, Pháp, Đức và Mỹ. Ngay cả những giáo sư người Nhật cũng là những người từng tốt nghiệp từ các nước vừa kể.


Trong thời gian 20 năm sau đó, có đến 400 giáo sư từ các nước phương Tây được Bộ Giáo dục Nhật mướn (hay mời) dạy tại các đại học và cao đẳng trên khắp nước Nhật. Không chỉ trong ngành giáo dục, Nhật còn mướn các chuyên gia phương Tây để làm việc và hướng dẫn trong các ngành như khai thác hầm mỏ, đường sắt, điện lực, điện tín, hãng xưởng…


Cùng lúc với sự hình thành của Đại học Tokyo, Nhật tích cực gửi sinh viên sang các nước phương Tây theo học tại các trường danh tiếng trên thế giới. Những “hạt nhân” đó sau này nắm giữ những chức vụ quan trọng trong hệ thống đại học và chính quyền.


Thời kỳ Cách mạng kỹ nghệ và Đại học.
Thời gian này được thiết lập hệ thống “đại học vương triều” (Imperial University System), và định hướng rõ ràng giáo dục phải phục vụ cho các mục tiêu của nhà nước. Năm 1890, (Đại học) Tokyo Imperial University được cho phép thành lập thêm một khoa mới, đó là khoa Nông học. Năm 1897, (Đại học) Kyoto Imperial University được thành lập theo mô hình của Đại học Tokyo. Kể từ đó, một số đại học trong hệ thống vương triều được thành lập, như Tohoku Imperial University (1907), Kyushu Imperial University (1910). Cả hai trường mới này chuyên về khoa học ứng dụng.


Thời gian mà các đại học vương triều ra đời trùng hợp với giai đoạn cách mạng kỹ nghệ ở Nhật. Cuộc cách mạng kỹ nghệ chủ yếu xảy ra ở ngành dệt và kỹ nghệ nhẹ, và chính các ngành “nhẹ” này đã là những viên gạch lót đường để Nhật trở thành một cường quốc kỹ nghệ sau này. Các Đại học vương triều có nhiệm vụ phải đào tạo các kỹ sư và khoa học gia, chuyên gia để đáp ứng nhu cầu của cuộc cách mạng kỹ nghệ. Mặc dù ý thức được cho rằng Đại học còn phải đào tạo các nhà nghiên cứu, nhưng trong giai đoạn mà công nghệ của Nhật còn quá thô sơ, họ chủ yếu nhắm vào việc đào tạo chuyên gia lành nghề, và việc đào tạo chuyên gia nghiên cứu chỉ tập trung ở các Đại học lớn như Tokyo và Kyoto. Song song với sự ra đời của các Đại học vương triều, Nhật còn thành lập một số trường cao đẳng kỹ thuật (technical college). Các trường Cao đẳng có nhiệm vụ giới thiệu các công nghệ của thế giới phương Tây nhưng có ứng dụng thực tế vào điều kiện phát triển ở Nhật. Đến năm 1910, Nhật đã có 17 trường cao đẳng kỹ thuật, và mỗi năm huấn luyện được hàng ngàn chuyên viên kỹ thuật.


Trong thời kỳ này, Nhật còn có một số Đại học tư thục, tuy lúc đó các trường này chưa được công nhận là “đại học” mà chỉ là những “trường đặc biệt” (special schools). Mãi đến năm 1918 các trường Đại học tư thục mới được chính thức công nhận là Đại học. Sau này, một số trường tư thục đó trở thành những Đại học danh tiếng. Chẳng hạn như Đại học Keio được thành lập năm 1868 (do gia đình của Fukuzawa Yukichi thành lập), Đại học Doshisa (của Niijima Jo lập năm 1875), Đại học Waseda (do Okuma Shigenobu lập năm 1882) đã có công đào tạo các chuyên gia kỹ thuật và quản lý cho các công ty tư nhân, và đóng góp một phần lớn vào sự nghiệp công nghiệp hóa của Nhật.


Thời kỳ Hậu chiến và Phát triển.
Trong thời gian chiến tranh, Nhật đã làm được một điều kỳ diệu: Phát triển đại học và kỹ nghệ. Cuộc chiến Nga - Nhật (1904-1905) là giai đoạn Nhật “củng cố lực lượng” để xây dựng và bành trướng thực lực quân sự. Đến thế chiến 1914-1918 thì thực lực quân sự của Nhật đã được chứng minh.


Thế chiến thứ nhất là động cơ để Nhật tiến hành một cuộc cách mạng kỹ nghệ thứ hai. Trong cuộc cách mạng này, Nhật tập trung vào kỹ nghệ nặng như đóng tàu, sản xuất sắt thép, sản xuất máy kỹ nghệ, hóa học… Trong thời gian 1915-1918, sản lượng kỹ nghệ của Nhật tăng sáu lần, và lần đầu tiên, sản lượng kỹ nghệ qua mặt sản lượng nông nghiệp, biến Nhật thành một nước công nghiệp tiên tiến.


Năm 1918 đạo luật thành lập các Đại học địa phương và Đại học vùng ra đời. Đạo luật còn cho phép thành lập các Đại học chuyên ngành như Đại học chuyên về kỹ thuật, kinh tế, nông học…


Đến năm 1930, Nhật đã có 7 Đại học vương triều, với 3 Đại học mới là Hokkaido, Osaka và Nagoya. Các đại học vương triều mới này chuyên về khoa học và công nghệ. Trong cùng thời gian này, các đại học cũ hơn như Tokyo và Kyoto bắt đầu thành lập các viện nghiên cứu trong và ngoài đại học. Phần lớn các viện nghiên cứu tập trung vào nghiên cứu về vật lý, hóa học, công nghệ hàng không. Trong giai đoạn này, Nhật đã có một hệ thống đại học hoàn chỉnh và tạo được một nền tảng cho phát triển khoa học kỹ thuật trong tương lai.


Thời kỳ Hoàn thiện.
Thời gian phát triển này kéo dài từ Thế chiến thứ 2 cho đến nay. Trong thời gian đầu sau khi Nhật đầu hàng, tương lai nước Nhật nằm trong tay của lực lượng chiếm đóng, và tương lai đất nước còn khá mập mờ. Năm 1949, chính quyền chiếm đóng đề nghị một cuộc tổng cải cách giáo dục trên toàn quốc. Theo đó, tất cả các đại học - từ hệ thống đại học vương triều đến đại học địa phương và tư thục - đều phải theo một chương trình đào tạo thống nhất, đó là bốn năm cho cấp cử nhân. Đến năm 1950, Nhật đã có 201 trường đại học, cao đẳng và viện nghiên cứu.


Đến năm 1952, khi Nhật được trao quyền tự trị, tương lai của Nhật có vẻ rõ ràng hơn. Người Nhật nhận thức rõ rằng để tồn tại trên thế giới với sự hạn chế tài nguyên thiên nhiên, Nhật tùy thuộc rất lớn vào khả năng kỹ nghệ. Để phát triển kỹ nghệ, họ cần phải phát triển hệ thống giáo dục đại học đến một tầm cao hơn. Năm 1956, một tài liệu về giáo dục cao đẳng của Anh (White Paper on Technical Education) được dịch sang tiếng Nhật, và trở thành một tài liệu tham khảo quan trọng, một kim chỉ nam cho hệ thống giáo dục đại học của Nhật sau này.


Năm 1956, Cục Khoa học và Công nghệ được thành lập, và năm 1960 Hội đồng Khoa học và Công nghệ đề xuất một số chính sách để phát triển khoa học và công nghệ trong vòng 10 năm. Những đề nghị này trở thành định hướng phát triển và hoàn thiện hệ thống đại học cho đến ngày nay.


Ngày nay, Nhật có hơn 725 trường đại học và 518 trường cao đẳng. Chất lượng đào tạo đại học của Nhật được thế giới công nhận. Hiện nay, Nhật có 11 trường đại học được xếp vào hạng “top 200” trên thế giới, với Đại học Tokyo (hạng 19) và Kyoto (hạng 25). Trong thời gian 1997-2001, các nhà khoa học Nhật công bố khoảng 336,858 bài báo khoa học, chiếm 9,3% tổng số bài báo khoa học trên thế giới. Số ấn phẩm khoa học của Nhật đứng vào hàng thứ tư trên thế giới, chỉ sau Mỹ, Liên hiệp châu Âu, Anh và Đức


 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét